Hơn ai hết, thi sĩ của “con nai vàng ngơ ngác” đã thấy rõ năng lực “tri nhân” ở mức lỗi lạc trong nhà cách mạng Việt Nam kiệt xuất của thế kỷ XX. Một lãnh tụ chân chính luôn là người có khả năng quy tụ nhân tâm vì biết cách sử dụng đúng đắn nhất nhân lực cho vẹn toàn mọi nỗi công tư, vừa hợp lẽ, vừa hữu tình. Tìm hiểu về những câu chuyện thực từng diễn ra trong cuộc đời của đồng chí Lê Duẩn, ta càng thấy rõ hơn điều đó.
Quy tụ nhân tâm
Anh Ba là tên gọi đời thường trìu mến của đồng chí Lê Duẩn. Còn trong kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn từng được đồng bào đồng chí trìu mến và đầy khâm phục gọi là “ông Hai trăm Bugi” (Deux cents Bougies). Biệt danh này có lẽ không chỉ để nói tới tầm nhìn xa trông rộng của một nhà hoạch định chiến lược và sách lược đấu tranh cách mạng, mà có lẽ muốn nói tới cả sự thấu hiểu cuộc đời và con người của đồng chí Lê Duẩn. Ai từng gặp đồng chí Lê Duẩn cũng đều có thể nhận thấy rõ năng lực phi thường của nhà lãnh đạo này trong việc nhìn ra ngay bản chất vấn đề và con người, dù phức tạp đến mấy. Và càng hiểu đời, hiểu người, Anh Ba càng nhất quán phong cách “lãnh đạo thông qua chủ trương, đường lối và giữ vai trò hạt nhân, quy tụ mọi lực lượng trong xã hội chứ không bao biện làm thay”, như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nhận xét trong một bài viết sâu sắc và sinh động tưởng nhớ đồng chí Lê Duẩn. Cũng theo hồi ức của đồng chí Võ Văn Kiệt về những năm kháng chiến chống Pháp, khi đồng chí được làm việc gần với Anh Ba trong chiến khu Nam Bộ: “Đảng trọng dụng người tài, thành tâm với đất nước, không kể giai tầng, xã hội, tôn giáo... Trong điều kiện Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Anh Ba và Xứ ủy giao hẳn nhiều trọng trách cho những người yêu nước ngoài Đảng. Các vị trí chủ chốt trong Ủy ban kháng chiến hành chính như Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Ủy ban đều do những vị trí thức có uy tín ngoài Đảng đảm nhận. Các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy (như Ung Văn Khiêm, Nguyễn Thanh Sơn...) chỉ làm ủy viên. Sở Công an do ông Diệp Ba – một luật sư ngoài Đảng – làm Giám đốc, còn đồng chí Phạm Hùng, Phó bí thư Xứ ủy, làm Phó giám đốc. Trung tướng Nguyễn Bình – nguyên tù chính trị Quốc dân đảng (tại Côn Đảo) – làm Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang Nam Bộ. Bản thân Anh Ba, người lãnh đạo cao nhất của Đảng ở Nam Bộ, chỉ giữ chức Trưởng phòng Dân quân...” Trong những năm phong trào cách mạng trong tình thế nước sôi lửa bỏng, gian khó muôn phần, những người Cộng sản như đồng chí Lê Duẩn sở dĩ luôn luôn duy trì được vai trò lãnh đạo hàng đầu của mình chủ yếu là ở chính những phẩm chất tốt đẹp, những năng lực vượt trội, chứ không phải nhờ cái ghế đang ngồi. Không ngẫu nhiên mà, cũng theo hồi ức của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, thời kháng chiến chống Pháp, “mọi người, kể cả các trí thức Nam Bộ tầm cỡ như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Hưởng, Ngô Tấn Nhơn... đều nói về Anh Ba với một thái độ kính phục và quý mến... Bất cứ vấn đề gì, ở tầm nào, Anh Ba cũng đều có thể thuyết phục được bên đối thoại...”
Kính yêu là một tình cảm thường là vô tư nhưng thực chất cũng là kết quả của cả một quá trình tác động lẫn nhau giữa quần chúng và lãnh tụ. Đồng chí Nguyễn Văn Phi, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội thương, nhớ lại hình ảnh đồng chí Lê Duẩn những ngày Nam Bộ kháng chiến: “Anh Ba là người ưa nhường nhịn. Ở Nam Bộ hồi đó có Trung tướng Nguyễn Bình rất oai vệ, là Tư lệnh toàn Nam Bộ. Trung tướng đến đâu thường có quân sĩ đi theo, tốp trước tốp sau. Anh Ba thì không như vậy. Tác phong của Anh rất ôn tồn, lặng lẽ.... Anh không hơn thua với ai. Anh chỉ thích tận tụy làm việc, sống giản dị và kín đáo. Anh thường dạy: “Cái hại lớn của người cán bộ là sự tản mạn tư tưởng”. Và Anh khuyên: “Mỗi ngày cố tập thành thói quen tập trung tư tưởng chừng một giờ”. Có lần, một số “anh lớn” nói vui với Anh Ba:
- Giá như bây giờ Anh Ba làm Chủ tịch Nam Bộ thì hay quá!
- Nói tầm bậy!- Anh Ba phản xạ ngay tức khắc.
Anh bảo đây là đất Nam Bộ, có nhiều nhà trí thức nổi tiếng, tự nhiên đưa một người “nói tiếng trọ trẹ” làm chủ tịch, sao nên! Cho nên các nhà trí thức Nam Bộ vào kháng chiến rất thương Anh, coi Anh như một người anh mẫu mực, có gì cũng nhường cho em út...”

Tổng Bí thư Lê Duẩn trò chuyện với các đại biểu dự
Đại hội Đảng toàn quốc lần IV năm 1976. (Ảnh: T.L).
Qua nhỏ thấy lớn
Tham gia cách mạng ngay từ khi Đảng ta còn phải hoạt động trong vòng bí mật giữa điệp trùng vây bủa của các thế lực thực dân phong kiến, đồng chí Lê Duẩn đã sớm đúc kết được những nguyên tắc nhanh nhạy nhận rõ chân tướng ta địch qua cả những chi tiết đời thường nhỏ nhặt nhất, thậm chí còn rèn giũa điều đó thành kỹ năng, “bản năng nhân tạo”. Nhờ thế mà đã không chỉ một lần Anh Ba loại trừ được những mối nguy hiểm đối với cách mạng cũng như chính bản thân mình. Theo hồi ức của đồng chí Phạm Văn Xô, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, dịp gần Tết năm 1957, Anh Ba vì lý do an ninh phải sang Phnom Penh để tránh sự vây bủa lùng sục rất ráo riết của kẻ địch. Đấy là giai đoạn mà đồng chí Lê Duẩn đang tập trung trí tuệ để xây dựng nên bản dự thảo Đề cương cách mạng Việt Nam, một văn bản về sau có ý nghĩa quyết định đối với diễn biến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Đồng chí Phạm Văn Xô kể: “Lúc ở Phnom Penh,đồng chí Lê Duẩn tập trung nung nấu suy nghĩ để hoàn chỉnh bản Đề cương đã được phác thảo tại Sài Gòn. Tôi còn nhớ đồng chí được bố trí cơ sở ở nhà anh Ba Hoán, đồng chí Lê Duẩn đóng vai ông già nhà quê là cậu lên thăm cháu. Bên cạnh nhà anh Ba Hoán là một giáo sư người Khơme; ông này quan sát thấy đồng chí Lê Duẩn đăm chiêu chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong nhà ngoài sân. Giáo sư này nói với anh Ba Hoán đại ý: ông cậu ở nhà quê lên thăm anh không phải ông già bình thường mà hình như ông đang suy nghĩ giống như nhà triết học. Nghe tin đó, đồng chí Lê Duẩn phải chuyển ngay tới một cơ sở Việt kiều khác...” Rõ ràng là “cẩn tắc” sẽ “vô áy náy” vì như thực tế cho thấy, không ít sự nghiệp lớn đã bắt đầu bị đổ bể chỉ vì những chi tiết sơ sảy tưởng như nhỏ nhặt.
Đồng chí Lê Duẩn còn là người có “con mắt xanh” trong nhìn nhận nhân tình thế thái. Lắm khi chỉ qua những chi tiết nhỏ nhặt mà bình thường chúng ta hay bỏ qua, Anh Ba có thể nhận ra chân tướng từng con người. Thương tướng Trần Văn Quang, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng khi kể về những năm được hoạt động cùng Anh Ba ở Trung Kỳ trước cách mạng Tháng 8-1945, đã nhớ lại: “Khoảng đầu tháng 10-1939, đồng chí Lê Duẩn lại ra Nghệ An gặp tôi. Sau khi nghe tôi báo cáo tình hình và băn khoăn vì không thể phát hiện được người nào khả nghi là “A.B” (tức những phần tử chống Cộng sản tràn trộn vào hàng ngũ của ta-TG), đồng chí nói: Tôi nghi thằng Di có quan hệ với mật thám... Hôm qua làm việc với nó, tôi nhìn thẳng vào mặt nó và nói: ở Nghệ An có A,B chui vào Đảng... Nó tái mặt, quay sang hướng khác, không dám nhìn tôi, cũng không nói được gì... Tôi định nhân dịp họp Trung ương sắp tới sẽ giữ nó lại...” Quả nhiên, những điều tra sau đó cho thấy, Đinh Văn Di, một người từng là đảng viên từ năm 1930, có trình độ, rất được cảm tình chung, nhưng đã dần dà bị sa ngã và phản bội lại đồng chí, đồng đội cũ. Y sau tháng 8-1945 đã bị chính quyền cách mạng bắt và xử...
Còn câu chuyện sau do đồng chí Nguyễn Thọ Chân, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Thi đua Trung ương, nhớ lại: “Có lần, anh Hồ Xuân Lưu (Trần Quốc Thảo) kể cho tôi nghe có một anh giáo học có thái độ tốt đối với cách mạng nhưng anh Lưu không thuyết phục nổi anh này thoát ly gia đình hoạt động cách mạng, phải nhờ Anh Ba (tên gọi thân mật đồng chí Lê Duẩn – TG) đến chơi và thuyết phục hộ. Gặp nhau, họ nói chuyện rất vui rồi chia tay. Dọc đường anh Hồ Xuân Lưu hỏi Anh Ba sao không đề cập chuyện thoát ly hoạt động? Anh Ba cười: “Chú không để ý quan sát. Khi bước vào sân thấy anh này đang phơi quần áo trắng, lấy tay kéo rất cẩn thận phẳng phiu, vào nhà thấy guốc dép để ghếch lên tường ngay ngắn, bàn ghế đồ đạc quá sạch và ngăn nắp. Người này chỉ có thể là cảm tình, rất nặng cuộc sống riêng tư, làm sao có thể rời bỏ gia đình, lao vào sóng gió cách mạng?” Anh Hồ Xuân Lưu rất phục sự biết người của Anh Ba...”
Biết người nên mới có thể dùng đúng người. Biết người nên càng trọng tình người hơn, chung thủy, có sau, có trước. Bài học này là của chung cuộc đời..

Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III được tổ chức từ
ngày 5 đến 10/9/1960tại Hà Nội, quyết định đường lối cách mạng XHCN và xây dựng
CHXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng chí
Lê Duẩn được bầu giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
(Ảnh: TTXVN).
Học ở trong đời
Sớm tham gia hoạt động cách mạng, không được đào tạo nhiều trong trường lớp chính quy, đồng chí đã tự học hỏi trong thực tế bằng cách riêng của mình. Cũng nhiều chiến sĩ cách mạng cùng thế hệ, ông từng bị thực dân Pháp bắt giam không chỉ một năm nhưng chính trong ngục tối, ông đã tích lũy được thêm những ánh lửa tri thức (nhà tù ở thời nào và ở đâu cũng thế, bẻ gãy những tính cách yếu ớt nhưng lại chắp cánh bay cao, bay xa hơn cho những nhân cách phi thường). Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Lê Xuân Tùng kể lại: “Anh em trong tù rất thán phục nét độc đáo trong cách học, cách nghiên cứu của Anh Ba. Anh ghi chép ít, nhưng đọc và nghiềm ngẫm, suy tư thì nhiều. Anh đào sâu tìm ra bản chất vấn đề, không dừng lại ở câu chữ. Anh liên hệ với cuộc sống, với hoạt động cách mạng, không giam mình trong sách vở. Đặc biệt khi thảo luận, trong lúc nhiều người nhắc lại bài giảng hay sách vở hoặc trích dẫn từng câu từng chữ, thì Anh Ba thường nêu ra những câu hỏi và những câu trả lời, lật đi lật lại vấn đề, diễn đạt bằng cách hiểu và ngôn ngữ của mình.”
Những ai từng gặp đồng chí Lê Duẩn đều có thể nhận ra đấy là một trí tuệ luôn náo động của lữ khách luôn ở trong trạng thái trên đường tìm kiếm, hướng tới, tấn công, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Nói theo cách của triết gia Pháp Decart, “tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại”. Với ông, dừng lại nghĩa là kết thúc. Không ngẫu nhiên mà ông thường nói rất nhanh, thậm chí lắm khi còn nuốt tiếng nữa. Những người có tư duy sắc bén và nhanh nhậy thường hay nói nhanh và... viết chữ xấu, có cảm giác như những động tác cơ học luôn bị chậm so với dòng thác ý tưởng nảy sinh và vận động trong đầu óc và trái tim của họ!
Đồng chí Lê Duẩn biết cách tập trung tư tưởng cho những công việc lớn và ông cũng từng khuyên những đồng chí của mình “Mỗi ngày cố tập thành thói quen cố tập trung tư tưởng chừng một giờ” vì “cái hại lớn nhất của người cán bộ là tản mạn tư tưởng”. Thế nhưng, ông cũng là người không bao giờ chịu thỏa mãn với cái đã có, đang có mà luôn tìm mọi cách để cải thiện, cải tiến hiện trạng. Theo hồi ức của đồng chí Tô Bửu Giám, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang, những người ở gần Anh Ba, “trong viết lách đều phải trải qua không ít lần “phá sản” khi biên tập những lời phát biểu của Anh. Anh em thường bảo: “Viết cho Anh Ba khó lắm. Viết thế nào cũng không đạt yêu cầu, cũng không vừa ý Anh.” Có lần đồng chí Lê Thám, Phó chủ nhiệm chính trị Khu VII Nam Bộ đã nói thẳng: “Tôi ghi gần như tốc ký phát biểu của Anh. Về chép lại nguyên xi những lời đó. Nay Anh bác nữa. Thật hết biết cách nào để diễn đạt cho đúng ý Anh”.
Trước sự chân thành và thẳng tính rất đặc thù Nam Bộ này, đồng chí Lê Duẩn đã cười vui trả lời: “Tôi phải nghiền ngẫm để hoàn thiện những điều mình suy nghĩ. Không lẽ các anh không muốn cho tư duy tôi phát triển sao? Các anh khi nghe phải động não, phải suy nghĩ để tiếp nối và phát triển hơn suy nghĩ của tôi. Không nên như một cái máy ghi âm thụ động”. Có chút gì đó hơi ngụy biện nhưng thực sự rất thấu tình đạt lý!
Có phương thức tư duy và hành động đúng đắn, cộng với nhân sinh quan cộng sản được hình thành và đào luyện trong đấu tranh cách mạng, đồng chí Lê Duẩn trong bất cứ tình huống này, với bất kỳ đối tượng nào, cũng rất dễ thu phục nhân tâm.

Tổng Bí thư Lê Duẩn trong một lần về thăm quê hương Quảng Trị. (Ảnh: Tư liệu).
Lý trí giàu tình cảm
Trong con mắt của đa số nhân dân, đồng chí Lê Duẩn là một chính khách cứng cỏi. Ông là người luôn làm việc theo chủ kiến của mình. Theo nhận xét của ông Đặng Xuân Kỳ, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương, nét rất nổi bật của đồng chí Lê Duẩn là “phong cách tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo”. Ông luôn cố gắng hành động theo hướng làm sao cho có lợi cho dân tộc, cho Tổ quốc. Không thứ uy vũ nào có thể khuất phục được ông, dù nó xuất phát từ đâu và dưới danh nghĩa nào. Chống Mỹ cứu nước đã trở thành phương châm hành động gần như của cả đời ông. Nhà báo quá cố Thép Mới đã kể một mẩu chuyện như sau: “Vào một buổi sáng như thường lệ, Anh Ba sang nhà Bác báo cáo công việc và xin ý kiến Bác về một số vấn đề lớn. Ngồi vào bàn, Anh Ba không được vui như mọi ngày, óc mải nghĩ về một bức điện của một nước bạn. Bác vốn quan tâm tới mọi người, thấy Anh Ba nghĩ ngợi, Bác không thể không hỏi:
- Chú Ba hôm nay có điều gì suy nghĩ thế?
- Thưa Bác, - Anh Ba đáp, giọng xúc động lạ thường- ta phải đánh Mỹ, ta không còn con đường nào khác là phải đánh Mỹ, mà người ta cứ một mực ngăn không cho ta đánh...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét, ngay cả sau khi Bác Hồ đã đi xa, “Anh đã cùng Bộ Chính trị lãnh đạo quân dân cả nước giữ vững quyết tâm kháng chiến, tiếp tục chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng”. Có lẽ càng nhiều năm tháng trôi qua và dòng chữ “Tối mật” sẽ càng bị loại bỏ khỏi nhiều cặp tư liệu thì chúng ta càng nhận thức rõ hơn vai trò không gì có thể thay thế được của đồng chí Lê Duẩn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Ngay cả trong những thời điểm không thuận lợi đối với chúng ta, ông vẫn là người thực sự công tâm và vị nghĩa, giúp làm giảm thiểu những thiệt hại và mất mát, bởi lẽ trong sâu thẳm tâm hồn, ông là người nhân nghĩa tới mức đôi khi trở nên đa cảm, mặc dầu hiếm ai được nhìn thấy những phút “xao lòng” hay “trữ tình” của ông. Cá nhân tôi chỉ duy nhất một lần được chứng kiến cảnh Bí thư thứ nhất BCH TW Đảng Lê Duẩn nghẹn ngào, đó là khi ông đọc điếu văn trong lễ tang Bác Hồ vĩ đại năm 1969– khi đấy, cả dân tộc đã cùng ông nghẹn ngào trước nỗi đau vô tận và mất mát khôn cùng.
Theo hồi ức của đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Đảng, năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chứng kiến thấy cảnh nhiều đồng bào và chiến sĩ ta quá hồ hởi với hy vọng vào việc nước nhà sau một hai năm nữa sẽ thống nhất, đồng chí Lê Duẩn đã trào nước mắt. Hơn ai hết, ngay từ lúc ấy ông đã hiểu rằng, mọi sự sẽ không đơn giản, kẻ thù của cách mạng Việt Nam sẽ không những không thực hiện nghiêm túc các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ mà sẽ dùng mọi thủ đoạn dã man và tàn bạo nhằm nhấn chìm phong trào yêu nước của đồng bào ta vào biển máu. Và thế là non sông đất nước ta sẽ còn bị chia cắt dài lâu. Tình hình về sau đúng như linh cảm của ông....
Trưa ngày 30/4/1975, ta chiếm được dinh Độc Lập, Sài Gòn giải phóng. Đồng chí Lê Duẩn, theo hồi ức của TS Lê Thị Muội, con gái ông, ngồi trong phòng làm việc một mình “lặng lẽ. Người ngước mắt cười với tôi, rồi nước mắt bỗng trào ra từ đôi mắt thân thiết luôn ngời sáng trong tôi.”
Đó không chỉ là những lần duy nhất mà nước mắt rơi trên gò má vị lãnh tụ. Đồng chí Ngô Thế Kiên, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Chánh văn phòng Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, nhớ lại: “Sau khi thống nhất đất nước, lần đầu tiên Anh về thăm Quảng Trị là năm 1976. Anh về làng Hậu Kiên, ngủ lại đêm tại ngôi nhà tranh vách nứa tại Chợ Sải, nơi Anh sinh ra và sống tuổi ấu thơ. Sáng hôm sau Anh đến thăm hầu hết các nhà trong làng, Anh gặp các cụ già, Anh vui với các cháu nhỏ. Lần đầu về thăm quê, Anh Ba rất xúc động, Anh không cầm được nước mắt trước cảnh phố xá bị hủy diệt, ruộng vườn đồng khô cỏ cháy, làng mạc bị tàn phá tiêu điều...”
Đồng chí Lê Duẩn là vị lãnh tụ vừa biết lo cho cái chung nhưng cũng không quên những việc nhân nghĩa nhỏ. Ai làm ơn cho ông một lần là ông nhớ suốt đời. Ông lo cho cả nước nhưng cũng luôn đau đáu về quê hương Quảng Trị của mình. Đồng chí Nguyễn Vạn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế, kể: “Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi được tiếp xúc với Anh Ba nhiều lần, nhưng có một lần làm tôi xúc động và ghi nhớ sâu sắc. Tôi gặp Anh tại phòng nghỉ tại nhà khách số 5 Lê Lợi. Tôi thấy Anh mệt, định cáo từ ra về, nhưng anh vội giữ lại, nói chuyện rất chân tình, rất cởi mở. Với giọng nói buồn buồn, Anh muốn khóc, Anh nói: Nước mắt rơi để giúp nhìn rõ hơn những nỗi đau nhân sinh trần thế.
Có thể sinh thời, ông không làm được hết mọi việc cho đời như ông muốn hay như cần thiết nhưng ông, bằng mọi thành công và có thể cả những chưa thành công như ý của đời mình, vẫn là một tấm gương sáng cho hậu thế soi chung.
Trần Thanh Tịnh